Sốt xuất huyết là gì? Các công bố khoa học về Sốt xuất huyết

Sốt xuất huyết (tiếng Anh: dengue fever) là một bệnh lý do virus dengue gây ra. Bệnh lý này đôi khi còn được gọi là "bệnh sốt dengue". Sốt xuất huyết thường có ...

Sốt xuất huyết (tiếng Anh: dengue fever) là một bệnh lý do virus dengue gây ra. Bệnh lý này đôi khi còn được gọi là "bệnh sốt dengue". Sốt xuất huyết thường có các triệu chứng như sốt cao, đau đầu, xuất huyết từ các mạch máu dựa nơi khác nhau trên cơ thể, đau cơ xương khớp và nổi mẩn trên da. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, sốt xuất huyết có thể gây ra biến chứng nguy hiểm, thậm chí gây tử vong.
Sốt xuất huyết là bệnh lý do virus dengue gây ra, được truyền từ người sang người qua muỗi cắn. Có bốn loại virus gây ra sốt xuất huyết, được gọi là DEN-1, DEN-2, DEN-3 và DEN-4.

Triệu chứng của sốt xuất huyết thường xuất hiện từ 4 đến 7 ngày sau khi bị muỗi cắn nhiễm virus. Những triệu chứng chính bao gồm:

1. Sốt cao: Sốt xuất huyết thường bắt đầu bằng một cơn sốt cao kéo dài trong khoảng 2-7 ngày.

2. Đau đầu: Đau đầu thường là một triệu chứng thường gặp và có thể làm nặng đi cảm giác tức ngực.

3. Xuất huyết: Xuất huyết có thể xuất hiện từ nhiều nơi khác nhau trên cơ thể như chảy máu chân răng, nổi ban thấp trên da, chảy máu cam, chảy máu tiểu...

4. Đau cơ xương khớp: Đau cơ xương khớp và cảm giác đau nhức các khớp là một triệu chứng thường xuyên gặp.

Ngoài ra, các triệu chứng khác bao gồm mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa, mất cảm giác vị giác, sốt rét, và mất nước.

Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, sốt xuất huyết có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như sốc sốt xuất huyết, gây suy tạng và thậm chí gây tử vong. Do đó, việc nhận biết sớm triệu chứng và tìm kiếm cấp cứu y tế là rất quan trọng. Điều trị căn bệnh này bao gồm việc quản lý triệu chứng và đảm bảo lượng nước và electrolyte cân đối trong cơ thể.
Để cung cấp thêm thông tin chi tiết, dưới đây là một mô tả chi tiết hơn về sốt xuất huyết:

1. Cách truyền nhiễm: Virus dengue được truyền qua muỗi Aedes aegypti và Aedes albopictus. Muỗi cắn người bị nhiễm virus và truyền nhiễm vào máu của một người khác khi cắn. Virus cũng có thể được truyền từ mẹ sang con qua thai nhi hoặc qua chất dịch tình dục.

2. Giai đoạn sơ cấp: Giai đoạn đầu tiên của sốt xuất huyết được gọi là giai đoạn sơ cấp. Khoảng thời gian này kéo dài từ 3-7 ngày sau khi bị muỗi cắn nhiễm virus. Trong giai đoạn này, người mắc bệnh có thể không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ như sốt cao và đau đầu.

3. Giai đoạn tăng cường: Sau giai đoạn sơ cấp, thường sau 3-7 ngày, bệnh chuyển sang giai đoạn tăng cường. Trong giai đoạn này, triệu chứng của sốt xuất huyết trở nên rõ rệt hơn và nguy hiểm hơn. Cách diễn biến của bệnh có thể thay đổi trong từng người mắc, nhưng các triệu chứng chính bao gồm:

- Sốt cao, thường trên 39 độ C, kéo dài từ 2-7 ngày.
- Đau đầu mạnh.
- Mệt mỏi và mất sức.
- Đau cơ xương khớp cường độ cao, đặc biệt ở cổ, lưng, và các khớp như đầu gối và cổ tay.
- Mất cảm giác vị giác và sự khó chịu với ánh sáng mạnh (photophobia).
- Tăng cường các triệu chứng tiêu chảy, buồn nôn và nôn mửa, có thể dẫn đến mất nước và mất điện giải trong cơ thể.

4. Biến chứng nguy hiểm: Nếu không được chăm sóc và điều trị kịp thời, sốt xuất huyết có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như:

- Sốc do mất nước và mất máu nghiêm trọng, gọi là sốc sốt xuất huyết.
- Viêm gan nặng (viêm gan dengue), có thể gây suy gan và thậm chí gây tử vong.
- Rối loạn đông máu và xuất huyết nội tạng, có thể làm suy giảm chức năng nhiều óc tốt và gây hư hỏng váng não.

Việc chẩn đoán sốt xuất huyết dựa trên triệu chứng, kết quả xét nghiệm máu, và tiếp xúc với muỗi nhiễm virus. Điều trị bao gồm việc quản lý triệu chứng, duy trì lượng nước và electrolyte cân đối, và giảm đau và sốt.

Việc phòng ngừa sốt xuất huyết bao gồm diệt muỗi và ngăn chặn sự gia tăng của chúng, sử dụng phướng pháp phòng ngừa muỗi như sử dụng kem chống muỗi, đóng kín các bể nước, và sử dụng mạng chống muỗi trên giường ngủ.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "sốt xuất huyết":

ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ ĐIỀU TRỊ SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở TRẺ EM TẠI BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG 1 TỪ 2019-2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 509 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề -Mục tiêu nghiên cứu: sốt xuất huyết dengue là bệnh có tỷ lệ mắc cao, là 1 trong các vấn đề y tế quan trọng ở Miền Nam, Việt Nam. Nghiên cứu này xác định đặc điểm dịch tễ, lâm sàng, cận lâm sàng và các biệp pháp điều trị sốc sốt xuất huyết dengue ở trẻ em nhập điều trị sớm tại bệnh viện Nhi Đồng 1. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca, tiến cứu tất cả bệnh nhi ≤ 16 tuổi chẩn đoán sốc sốt xuất huyết dengue tại bệnh viện Nhi Đồng 1 trong thời gian 01/07/2019 đến 30/06/2020. Kết quả: Có 35 bệnh nhi sốc sốt xuất huyết dengue được nhận vào nghiên cứu. Độ tuổi trung bình là 6,8 ± 3,9 tuổi, nhóm tuổi 5 – 10 tuổi thường gặp nhất. Tỉ lệ Nam/Nữ là 1/1,1. Trẻ béo phì chiếm tỉ lệ 17,1%. Tỉ lệ sốc nặng là 17,1%, sốc kéo dài là 2,9%, tái sốc là 2,9%. Triệu chứng lâm sàng lúc sốc: gan to (88,6%), chấm xuất huyết (77,1%), đau bụng (34,3%), xuất huyết tiêu hoá (8,6%), rối loạn tri giác (5,8%), chảy máu nướu răng (2,9%). Tỉ lệ suy hô hấp là 40%. 62,8% bệnh nhân tổn thương gan, 14,3% suy gan. Tỉ lệ rối loạn đông máu là 83,9%. Đông máu nội mạch lan tỏa gặp trong 45,2% trường hợp. Tổng lượng dịch truyền là 163,5 ± 43,8 ml/kg với thời gian truyền trung bình là 31,3 ± 7,9 giờ. Có 60% trường hợp cần truyền cao phân tử, 11,4% truyền chế phẩm máu, 5,7% truyền albumin. Kết luận: 17,1% trường hợp sốc nặng, tái sốc và sốc kéo dài là 5,8%. Những biểu hiện lâm sàng thường gặp lúc sốc là: gan to, chấm xuất huyết, đau bụng, xuất huyết tiêu hóa. 40% bệnh nhân suy hô hấp, trong đó có 1 trường hợp thở máy. Tỉ lệ tổn thương gan, rối loạn đông máu khá cao. Có đến 60% truyền cao phân tử.
#sốc sốt xuất huyết dengue
ĐIỀU TRỊ SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE KÉO DÀI, BIẾN CHỨNG NẶNG TẠI KHOA CẤP CỨU - HỒI SỨC, BỆNH VIỆN NHI ĐỒNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (01/2017 - 12/2017)
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 3 Số 31 - Trang 32-37 - 2020
Mục tiêu: mô tả các can thiệp điều trị ở trẻ sốc sốt xuất huyết dengue (SXHD) kéo dài điều trị tại khoa Cấp cứu - Hồi sức, Bệnh viện Nhi Đồng thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 01/2017 đến tháng 12/2017. Phương pháp: mô tả hàng loạt trường hợp. Kết quả: 76 trường hợp sốc SXHD kéo dài, sốc (78,9%), sốc nặng (21,1%), biểu hiện lâm sàng nặng với sốc 100%, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) 18,4%, suy gan 23,7%, xuất huyết tiêu hóa 67,1%, suy đa cơ quan (MODS) 22,4%. Điều trị bao gồm bù dịch tổng lượng trung bình 217,4ml/kg trong thời gian trung bình 37,2 giờ, trong đó lượng đại phân tử trung bình là 164,5ml/kg, dưới sự hướng dẫn của đo áp lực tĩnh mạch trung ương 80,2%, huyết áp động mạch xâm lấn 100%, hỗ trợ hô hấp thở áp lực dương liên tục CPAP 100%, thở máy không xâm lấn 46,1%, thở máy xâm lấn 13,2%, chọc dẫn lưu dịch màng bụng 40,8% dưới sự hỗ trợ của đo áp lực bàng quang 75%; điều trị xuất huyết tiêu hóa, rối loạn đông máu như hồng cầu lắng 72,4% với lượng trung bình là 16,4ml/kg, huyết tương tươi đông lạnh 61,8% với lượng trung bình 20,6ml/kg, kết tủa lạnh 57,9% với lượng trung bình 1,5đv/6kg, tiểu cầu đậm đặc 31,6% với lượng trung bình 1,7đv/10kg. Thời gian điều trị trung bình tại khoa Hồi sức là 6,4 ngày, có 2 (2,6%) trường hợp tử vong. Kết luận: cần trang bị cho các bệnh viện tỉnh các phương tiện hồi sức, chuyển giao các kỹ thuật nâng cao như thở máy, lọc máu, đo áp lực bàng quang, huyết áp xâm lấn... để cứu sống nhiều hơn nữa các trường hợp sốc SXHD nặng.
#Hội chứng sốc dengue (DSS)
MỘT SỐ CHỈ SỐ LIÊN QUAN ĐẾN TIÊN LƯỢNG Ở BỆNH NHÂN NHI SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE NẶNG
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 3 Số 31 - Trang 38-41 - 2020
Năm 2009, Tổ chức Y tế Thế giới đã đưa ra phác đồ khuyến cáo điều trị tăng cường ở bệnh nhân sốt xuất huyết dengue (SXHD) có dấu hiệu cảnh báo nhằm giảm nguy cơ nặng. Mục tiêu: Xác định các chỉ số tiên lượng nặng ở bệnh nhân Nhi SXHD. Phương pháp: Nghiên cứu ghép cặp, gồm 27 bệnh nhân SXHD nặng và nhóm đối chứng là 81 bệnh nhân gồm 54 bệnh nhân SXHD và 27 bệnh nhân SXHD có dấu hiệu cảnh báo. Kết quả: Sau can thiệp điều trị bù dịch tích cực, các chỉ số có giá trị tiên lượng SXHD nặng là đau bụng vùng gan (OR: 3,7; CI: 1,1 - 12,7), số lượng tiểu cầu dưới 50.000 G/L (OR: 5,7; CI: 1,2 - 27,5), nồng độ AST trên 500 U/l (OR: 10,2; CI: 1,1 - 93,0), nồng độ ALT trên 250 U/l (OR: 4,5; CI: 1,05 - 19,0) và chỉ số đông máu APTT kéo dài trên 44 giây (OR: 90,7; CI: 1,8 - 4691,1). Kết luận: Cần lưu ý các dấu hiệu tiên lượng nặng để có các biện pháp điều trị kịp thời giảm nguy cơ tử vong ở bệnh nhân SXHD.
#Sốt xuất huyết dengue #sốt xuất huyết dengue nặng #sốt xuất huyết dengue cảnh báo #hội chứng sốc dengue
KHẢO SÁT THAY ĐỔI HUYẾT ĐỘNG, ĐIỆN GIẢI, KIỀM TOAN VÀ RỐI LOẠN ĐÔNG MÁU Ở BỆNH NHÂN SỐC SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ DUNG DỊCH HYDROXYETHYL STARCH 130 6%
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 38 - Trang 65-71 - 2022
Mục tiêu: khảo sát thay đổi huyết động, điện giải, kiềm toan và rối loạn đông máu ở  bệnh nhân sốc sốt xuất huyết dengue được điều trị dung dịch hydroxyethyl starch 130 6% nhập viện nhi đồng Thành phố từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 Phương pháp: Hồi cứu, mô tả hàng loạt trường hợp. Kết quả: Qua nghiên cứu 60 trường hợp sốc sốt xuất huyết dengue được truyền dung dịch HES 130 6%, tuổi trung bình 5.4 tuổi, nhỏ nhất là 14 tháng, lớn nhất là 14 tuổi. Khảo sát huyết động học trong vòng 24 giờ sau truyền dung dịch HES cho thấy cải thiện tình trạng sốc với trị số nhịp mạch trung bình giảm có ý nghĩa sau 4 giờ (121,3 vs.101,6), cải thiện hiệu áp sau một giờ điều trị, trong khi huyết áp tâm thu, tâm trương, trung bình ổn định ở mức 92,5 – 108,4 mmHg, 73,2-66,2 mmHg, 78,6-82,7 mmHg. Dung tích hồng cầu trung bình (Hct) sau truyền HES 130 6% một giờ là 38,6% cải thiện có ý nghĩa so với ban đầu là 43.4% và ổn định sau đó ở mức 37,5-38,4%. Không có sự thay đổi bất thường đáng kể về điện giải, kiềm toan, đông máu. Lượng dung dịch HES 130 6%  được sử dụng trung bình là 133,8 ± 15,3 ml/kg trong thời gian trung bình là 25,3 ± 2,6 giờ. Biến chứng có thể do truyền dung dịch HES 130 6% bao gồm suy hô hấp (56,7%) do tràn dịch màng phổi, màng bụng; xuất huyết tiêu hóa (8.3%). Không ghi nhận run tiêm truyền hay sốc phản vệ khi truyền dung dịch HES 130 6%. Tỉ lệ thất bại với dung dịch HES 130 6%, phải đổi sang HES 200 6% hoặc dextran 40 10% là 38,3%. Kết quả điều trị không có tử vong. Kết luận: Nghiên cứu giúp các bác sĩ  lâm sàng có thêm một chọn lựa dung dịch HES 130 6% trong điều trị sốc sốt xuất huyết dengue khi mà nguồn dung dịch cao phân tử khan hiếm như HES 200 6%, dextran 40 10%. Tuy nhiên, việc áp dụng dung dịch HES 130 6% chỉ dành cho bệnh nhân sốc sốt xuất huyết dengue, không dành cho sốc sốt xuất huyết dengue nặng và lưu ý vấn đề suy hô hấp xảy ra ở trẻ để có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
#Sốc sốt xuất huyết Dengue #HES 130 6%.
NGHIÊN CỨU TỔN THƯƠNG GAN Ở BỆNH NHÂN SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE Ở NGƯỜI LỚN
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 2 Số 42 - Trang 71-76 - 2023
Đặt vấn đề: Tổn thương gan thường gặp trong bệnh sốt xuất huyết Dengue (SXHD) và biểu hiện khá đa dạng, thay đổi từ tổn thương nhẹ tăng transaminase không triệu chứng đến mức độ nặng vàng da và suy gan cấp tính, dẫn đến tử vong. Nhiều yếu tố góp phần gây nên tổn thương gan gồm thiếu oxy do giảm tưới máu,virus tấn công trực tiếp tế bào gan hoặc do phản ứng miễn dịch của cơ thể. Mục tiêu: 1. Khảo sát đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng tổn thương gan ở bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue người lớn; 2. Đánh giá mối liên quan giữa tổn thương gan với đặc điểm lâm sàng, mức độ nặng sốt xuất huyết Dengue. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 160 bệnh nhân ≥ 16 tuổi được chẩn đoán sốt xuất huyết Dengue nhập viện tại Khoa Bệnh nhiệt đới, Bệnh viện Trung ương Huế, từ tháng 4/2019 đến tháng 6/2020. Kết quả: Biểu hiện lâm sàng tổn thương gan: đau bụng hạ sườn phải (25%), gan to (6,3%), vàng da vàng mắt (1,3%), bệnh não gan (0%). Xét nghiệm transaminase: tăng hoạt độ AST và ALT từ 2 - 5xULN (36,9% và 29,4%), 5 - 15xULN (16,9% và 11,9%), > 15xULN (6,2% và 2,5%) và 90,6% bệnh nhân có tỷ số AST/ALT > 1. Xét nghiệm chức năng gan khác: tăng ALP (1,3%); tăng bilirubin toàn phần (2,5%), PT% giảm (6,9%). Giá trị AST, ALT, bilirubin toàn phần khác nhau giữa các mức độ SXHD, tăng trong thể SXHD có dấu hiệu cảnh báo và SXHD nặng (p < 0,05). Trong SXHD: Có mối liên quan giữa mức độ tăng AST, ALT, tỷ prothrombin với xuất huyết tiêu hóa trong SXHD (p < 0,05), có mối liên quan giữa mức độ tăng AST với sốc (p < 0,05). Có mối tương quan nghịch giữa hoạt độ AST, ALT với số lượng tiểu cầu (p < 0,05). Kết luận: Có mối liên quan giữa mức độ tăng enzym AST, ALT và xuất huyết tiêu hóa trong bệnh sốt xuất huyết Dengue. Có mối liên quan giữa mức độ tăng AST và sốc (p < 0,05). Tỷ prothrombin giảm < 70% là yếu tố nguy cơ của xuất huyết tiêu hóa, sốc (p < 0,05)
#Sốt xuất huyết Dengue #tổn thương gan #transaminase
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue tại Khu Dã chiến điều trị sốt xuất huyết, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2017
Mục tiêu: Nhận xét đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị bệnh sốt xuất huyết Dengue tại Khu Dã chiến điều trị sốt xuất huyết, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2017. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả, cắt ngang trên 520 bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue tại Khu Dã chiến điều trị sốt xuất huyết, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2017. Kết quả: Đặc điểm lâm sàng: 520 bệnh nhân sốt xuất huyết Dengue với 302 bệnh nhân nam (58,1%), đa số gặp ở tuổi 16 - 30 (45,2%). Hầu hết bệnh nhân nhập viện vào giai đoạn sốt (61,7%) và được chẩn đoán mức độ là sốt xuất huyết Dengue (85,0%), không có sốt xuất huyết Dengue nặng. Đa số bệnh nhân có sốt cao đột ngột liên tục, 100% bệnh nhân có đau đầu, đau cơ khớp và da xung huyết. Xuất huyết dưới da chiếm tỷ lệ 49,4%, xuất huyết niêm mạc (17,7%), chủ yếu là chảy máu chân răng. Dấu hiệu cảnh báo hay gặp nhất là vật vã hoặc li bì 5,6%, tiếp theo là buồn nôn và nôn, đau bụng và gan to chiếm tỷ lệ thấp hơn lần lượt là 4,2%, 3,8% và 3,3%. Đặc điểm cận lâm sàng: Bạch cầu và tiểu cầu giảm, hematocrit tăng rõ nhất ở giai đoạn nguy hiểm của bệnh. Tỷ lệ bệnh nhân có tổn thương gan thấp (29,2% tăng SGOT, 33,5% tăng SGPT). Kết luận: 100% bệnh nhân khỏi về nhà hoặc chuyển điều trị nội trú, số ngày điều trị trung bình là 3,98 ± 0,92 ngày.  
#Sốt xuất huyết Dengue #lâm sàng #cận lâm sàng #điều trị
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC SỐT XUẤT HUYẾT Ở ĐỒNG NAI 2017-2018
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 498 Số 1 - 2021
100 bệnh nhân sốt xuất huyết ở Đồng Nai được lấy mẫu máu đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng và nguyên nhân gây bệnh sốt xuất huyết. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, labo nhận xét. Kết quả nghiên cứu cho thấy, nhóm tuổi lao động từ 21-40 chiếm tỉ lệ cao nhất dao động từ 30,3-37,4. Tỉ lệ dương tính với test nhanh xác định nsp1 của virus dengue là 37%. Không phát hiện ca nào dương tính với virus Zika và Chikungunya.
#Sốt xuất huyết #virus Dengue
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH PHÒNG BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT DENGUE CỦA NGƯỜI DÂN TẠI PHƯỜNG ĐÔNG XUYÊN, THÀNH PHỐ LONG XUYÊN, TỈNH AN GIANG NĂM 2021
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 3 - 2022
Mục tiêu: Mô tả kiến thức, thái độ, thực hành về phòng bệnh sốt xuất huyết Dengue tại phường Đông Xuyên, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang năm 2021. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp cắt ngang phân tích với cỡ mẫu là 350 người, số liệu được thu thập tại cộng đồng từ ngày 18/02/2021 đến 30/03/2021. Kết quả: Tỷ lệ ĐTNC có kiến thức, thái độ và thực hành đúng lần lượt là 46,6%, 48,0% và 57,1%.
#Sốt xuất huyết Dengue #kiến thức #thái độ #thực hành #Đông Xuyên #Long Xuyên #An Giang.
KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ, THỰC HÀNH (KAP) CỦA NGƯỜI DÂN VỀ SỐT XUẤT HUYẾT SAU CAN THIỆP TRUYỀN THÔNG VÀ HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT VECTOR TẠI TỈNH GIA LAI
TẠP CHÍ PHÒNG CHỐNG BỆNH SỐT RÉT VÀ CÁC BỆNH KÝ SINH TRÙNG - - Trang 13-26 - 2023
Sốt xuất huyết (SXH) là bệnh do virus Dengue do muỗi Aedes truyền, bệnh lưu hành ởnhiều vùng tại Tỉnh Gia Lai trong các năm qua. Nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giásự thay đổi của kiến thức, thái độ và thực hành phòng ngừa SXH trong cộng đồng ở tỉnhGia Lai khi có tác động truyền thông giáo dục sức khoẻ. Một nghiên cứu cắt ngang đã đượcthực hiện tại huyện Chư Puh và thành phố Pleiku, mỗi năm 2 đợt, tổng số người đượcphỏng vấn là 600 tại 6 điểm nghiên cứu, hoạt động truyền thông mỗi tháng một lần gắn vớicác đợt giám sát ổ bọ gậy nguồn. Kết quả cho thấy, kiến thức về SXH của người dân tại đâychưa tốt. Thái độ đối với việc phòng ngừa và kiểm soát SXH còn kém, tỉ lệ người nhầm lẫn:76,5% muỗi SXH là Anopheles và cho rằng SXH có thể kiểm soát và ngăn chặn được từthuốc diệt côn trùng trôi nổi trên thị trường; số người sử dụng thuốc phun xịt trong gia đìnhlà 66,11% trước tác động, 10,5% sau tác động. Thực hành phổ biến nhất là ngăn ngừamuỗi sinh sản và loại bỏ nước các vật chứa nước: 64,81% trước tác động, 87% sau tácđộng và đậy các dụng cụ chứa nước: 19,27% trước tác động, 43% sau tác động. Nghiêncứu cho thấy, có tác động đáng kể giữa truyền thông làm nâng cao KAP và nhận thức củangười dân trong cộng đồng đối với các biện pháp phòng ngừa, kiểm soát SXH. Đồng thời,truyền thông nâng cao KAP cũng có mối liên quan đến việc giảm các chỉ số vector baogồm: chỉ số Breteau index (BI), chỉ số dụng cụ chứa nước có bọ gậy (CI), chỉ số mật độmuỗi (HI), chỉ số nhà có muỗi (DI) có ý nghĩa thống kê (p <0,05). Vì vậy, các cơ quan chứcnăng của địa phương nên tăng cường các chương trình về các chiến dịch giáo dục để nângcao nhận thức, kiến thức về SXH và các biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu muỗi vàphòng chống bệnh SXH.
#Sốt xuất huyết #KAP #biện pháp truyền thông #chỉ số vector #muỗi Aedes
Tổng số: 91   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10